truyện ngắn alice munro

Truyện ngắn của Alice Munro thường xuất hiện trên các tập san lớn như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review, và được đăng lại trong 14 tuyển tập, mỗi cuốn cách nhau ba hay bốn năm, từ 1968 đến 2012. Tuyển tập "Trốn chạy" đã góp thêm một giải Giller năm 2004 vào gia tài giải thưởng vốn đã rất dày dặn của bậc thầy truyện ngắn xứ sở lá phong đỏ, Alice Munro. *** Đôi nét về tác giả. ALICE ANN MUNRO sinh năm 1931 tại bang Ontario, Canada. Trốn chạy - tập truyện ngắn của Alice Munro - đã được xuất bản tại Việt Nam tháng 3/2012.. Trốn chạy tên tiếng Anh là Runaway, gồm tám truyện ngắn, lấy tên truyện đầu tiên trong sách làm tiêu đề.Truyện ngắn Trốn chạy kể về hai cuộc chạy trốn, một của người phụ nữ chạy trốn khỏi người chồng thô "Cuộc đời yêu dấu" (Alice Munro): Khi mỗi người đều có một câu chuyện để kể Hiếm có nhà văn nào đoạt giải Nobel văn chương chỉ từ viết truyện ngắn, nhưng Canada Alice Munro là một ngoại lệ. Munro là một người kể chuyện bẩm sinh, với cách quan sát chi tiết và sự dửng dưng ngoài cuộc. Bà xuất bản truyện ngắn đầu tiên năm 1950, khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, tác phẩm có tên "The Dimensions of a Shadow". Năm 1968, khi Munro 37 tuổi, tuyển tập truyện ngắn "Dance of the Happy Shades" ra đời, nhận được sự chú ý lớn trong giới văn chương Canada. Site De Rencontre Jeune Serieux Gratuit. Giới thiệu bạn đọc cuốn ebook "Truyện Ngắn Alice Munro" Alice Munro sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở thị trấn Clinton, nơi bà cũng thường trở về sau này. Theo học đại học Western Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm 20 tuổi. Bà và gia đình sống ở một đảo ngoài khơi Vancouver nhiều năm nay, coi sóc tiệm sách có tên là Munro. Hai ông bà có với nhau ba đứa con, hôn nhân của họ thời trẻ có một thời kỳ tan vỡ. Sinh quán của Alice Munro, Ontario, là tỉnh bang lớn nhất Canada, gần bên Ngũ Đại Hồ. Vùng phía nam của tỉnh là vùng có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc xinh đẹp, đất nông nghiệp bằng phẳng, nhiều sông hồ. Trong truyện của Munro, có cảnh vật của Ontario hoặc thiên nhiên hoang dã trên đảo Vancouver. Truyện của bà viết về đời sống những người bình thường, với văn phong giản dị, trong trẻo và đẹp. Nhưng đó là bề ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không dễ hiểu. Người đọc cần chú tâm đến từng chi tiết mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự mô tả chính xác, phân tích sắc bén các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục và a dua, tính hài hước, và lòng trắc ẩn. Alice Munro nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải General Governor, giải thưởng danh giá nhất Canada, và giải Man Booker International năm 2009. Dù sức khoẻ yếu, bà có khả năng làm việc đều đặn, bền bỉ. Tác phẩm tạm dịch Vũ Điệu Những Cái Bóng Hạnh Phúc Dance of The Happy Shadesgiải GG, Cuộc Đời Những Cô Gái và Đàn Bà Lives of Girls and Women, Bạn Nghĩ Bạn Là Ai Kia? Who Do You Think You Are, Những Mặt Trăng Của Mộc Tinh The Moons Of The Jupiter, Tiến Triển Của Tình Yêu The Progress of Love giải GG, Chạy Trốn Runaway. Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá Sức Hạnh Phúc Too Much Happiness. Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, tác phẩm mới Cuộc Đời Yêu Dấu Dear Life. Một truyện của bà, Gấu Về Qua Núi The Bear Came Over The Mountain, một chuyện tình cảm động, đã được Sarah Polley chuyển thành phim với các tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent. Truyện ngắn sau đây, nguyên văn tiếng Anh “Miles City, Montana” rút từ tập The Progress of Love, 1985, NXB Alfred A. Knoft. Miles City là tên một thị trấn nhỏ, dân số không quá một ngàn người, Montana là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, sát biên giới Canada. Kín đáo, khiêm cung, Alice Munro không phải là người của công chúng, và ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại trừ tác phẩm của mình. Cách đây bốn năm, khi tôi đến nghe một buổi hội thảo ở Vancouver sau giải Man Booker International, với nhiều nhà văn nổi tiếng như Margaret Atwood đọc những tham luận xúc động, đầy yêu mến, nhằm tuyên dương tác phẩm của bà, Alice Munro đã không có mặt. Trên thế giới nhiều người vẫn không biết đến tên bà- mặc dù năm 2005, tuần báo Time đã chọn bà là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất- cho đến ngày 10 tháng 10 năm 2013 vừa qua. Ngày hôm đó, Ủy ban giải thưởng Nobel đã không thể liên lạc được với nhà văn để báo tin vui. Các độc giả cũng không tìm đọc bà như tìm đến các tên tuổi văn học khác, đôi khi họ bắt gặp bà một cách tình cờ trên kệ sách, và tự hỏi bà này là ai? Tôi chọn truyện “Miles City, Montana” vì đó là truyện ngắn đầu tiên của bà mà tôi được đọc, cách đây mười bốn năm, trong một thời kỳ hỗn loạn. Truyện của bà đã giúp tôi đứng lại, nhìn xuống, thấy được chính thật tình trạng của mình. Tôi dịch truyện ngắn này như một lời cám ơn lặng lẽ. Tham khảo thêm Truyền Thuyết Về Mộc LanTham khảo thêm Từ Bỏ Thế Giới VàngTham khảo thêm Tù Nhân Của Thiên ĐườngTham khảo thêm Từ Thăm Thẳm Lãng QuênTham khảo thêm Tứ Thư CLICK LINK DOWNLOAD EBOOK TẠI ĐÂY. Alice Munro sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo. Bà trải qua tuổi thơ ở thị trấn Clinton, nơi bà cũng thường trở về sau này. Theo học đại học Western Ontario, nhưng rời trường sớm khi lập gia đình năm 20 tuổi. Bà và gia đình sống ở một đảo ngoài khơi Vancouver nhiều năm nay, coi sóc tiệm sách có tên là Munro. Hai ông bà có với nhau ba đứa con, hôn nhân của họ thời trẻ có một thời kỳ tan vỡ. Sinh quán của Alice Munro, Ontario, là tỉnh bang lớn nhất Canada, gần bên Ngũ Đại Hồ. Vùng phía nam của tỉnh là vùng có khí hậu ôn hòa, cảnh sắc xinh đẹp, đất nông nghiệp bằng phẳng, nhiều sông hồ. Trong truyện của Munro, có cảnh vật của Ontario hoặc thiên nhiên hoang dã trên đảo Vancouver. Truyện của bà viết về đời sống những người bình thường, với văn phong giản dị, trong trẻo và đẹp. Nhưng đó là bề ngoài dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không dễ hiểu. Người đọc cần chú tâm đến từng chi tiết mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự mô tả chính xác, phân tích sắc bén các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục và a dua, tính hài hước, và lòng trắc ẩn. Alice Munro nhận nhiều giải thưởng, trong đó ba lần giải General Governor, giải thưởng danh giá nhất Canada, và giải Man Booker International năm 2009. Dù sức khoẻ yếu, bà có khả năng làm việc đều đặn, bền bỉ. Tác phẩm tạm dịch Vũ Điệu Những Cái Bóng Hạnh Phúc Dance of The Happy Shadesgiải GG, Cuộc Đời Những Cô Gái và Đàn Bà Lives of Girls and Women, Bạn Nghĩ Bạn Là Ai Kia? Who Do You Think You Are, Những Mặt Trăng Của Mộc Tinh The Moons Of The Jupiter, Tiến Triển Của Tình Yêu The Progress of Love giải GG, Chạy Trốn Runaway. Năm 80 tuổi, xuất bản tập Quá Sức Hạnh Phúc Too Much Happiness. Tiếp sau đó, trước sự ngạc nhiên của nhiều người, tác phẩm mới Cuộc Đời Yêu Dấu Dear Life. Một truyện của bà, Gấu Về Qua Núi The Bear Came Over The Mountain, một chuyện tình cảm động, đã được Sarah Polley chuyển thành phim với các tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent. Truyện ngắn sau đây, nguyên văn tiếng Anh “Miles City, Montana” rút từ tập The Progress of Love, 1985, NXB Alfred A. Knoft. Miles City là tên một thị trấn nhỏ, dân số không quá một ngàn người, Montana là một tiểu bang ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, sát biên giới Canada. Kín đáo, khiêm cung, Alice Munro không phải là người của công chúng, và ít khi xuất hiện trên báo chí, ngoại trừ tác phẩm của mình. Cách đây bốn năm, khi tôi đến nghe một buổi hội thảo ở Vancouver sau giải Man Booker International, với nhiều nhà văn nổi tiếng như Margaret Atwood đọc những tham luận xúc động, đầy yêu mến, nhằm tuyên dương tác phẩm của bà, Alice Munro đã không có mặt. Trên thế giới nhiều người vẫn không biết đến tên bà- mặc dù năm 2005, tuần báo Time đã chọn bà là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất- cho đến ngày 10 tháng 10 năm 2013 vừa qua. Ngày hôm đó, Ủy ban giải thưởng Nobel đã không thể liên lạc được với nhà văn để báo tin vui. Các độc giả cũng không tìm đọc bà như tìm đến các tên tuổi văn học khác, đôi khi họ bắt gặp bà một cách tình cờ trên kệ sách, và tự hỏi bà này là ai? Tôi chọn truyện “Miles City, Montana” vì đó là truyện ngắn đầu tiên của bà mà tôi được đọc, cách đây mười bốn năm, trong một thời kỳ hỗn loạn. Truyện của bà đã giúp tôi đứng lại, nhìn xuống, thấy được chính thật tình trạng của mình. Tôi dịch truyện ngắn này như một lời cám ơn lặng lẽ. When a writer is universally beloved and highly prolific, it can be hard for the uninitiated to know where to start. It’s even more difficult when the writer in question is a master of the short story as opposed to the novel, because at least novels lend themselves to the kind of summary that might let you know if you’ll be interested in the book—it’s much harder to describe a story collection. Such is the case for many with Alice Munro people know they should read her, but have no idea how to break into her oeuvre. Well, if you’re one of those people, you’re in luck. Munro turns 87 tomorrow, which is as good a reason as any though let’s be clear no reason is required to finally delve into some of her work. So if you’ve been too intimidated to dive into this incredible writer’s formidable backlog, why not ease in with some no-commitment short stories? You won’t even have to buy a book. Below, you can read the openings of 25 Munro stories to see which one strikes your fancy—you could browse chronologically, or if you need a more pointed nudge, you could always start with my own personal favorite, “Wenlock Edge.” Once you’ve decided, click through—all of the below stories are available to read for free thanks to the magic of the internet though depending on your subscriptions, you may have to get creative. Enjoy. “Boys and Girls,” 1968 My father was a fox farmer. That is, he raised silver foxes, in pens; and in the fall and early winter, when their fur was prime, he killed them and skinned them and sold their pelts to the Hudson’s Bay Company or the Montreal Fur Traders. These companies supplied us with heroic calendars to hang, one on each side of the kitchen door. Against a background of cold blue sky and black pine forests and treacherous northern rivers, plumed adventures planted the flags of England and or of France; magnificent savages bent their backs to the portage. “Queenie,” London Review of Books, 1998 Queenie said, “Maybe you better stop calling me that,” and I said, “What?” “Stan doesn’t like it,” she said. “Queenie.” “The Bear Came Over the Mountain,” The New Yorker, 1999 Fiona lived in her parents’ house, in the town where she and Grant went to university. It was a big, bay-windowed house that seemed to Grant both luxurious and disorderly, with rugs crooked on the floors and cup rings bitten into the table varnish. Her mother was Icelandic—a powerful woman with a froth of white hair and indignant far-left politics. The father was an important cardiologist, revered around the hospital but happily subservient at home, where he would listen to his wife’s strange tirades with an absentminded smile. Fiona had her own little car and a pile of cashmere sweaters, but she wasn’t in a sorority, and her mother’s political activity was probably the reason. Not that she cared. Sororities were a joke to her, and so was politics—though she liked to play “The Four Insurgent Generals” on the phonograph, and sometimes also the “Internationale,” very loud, if there was a guest she thought she could make nervous. “What Is Remembered,” The New Yorker, 2001 In a hotel room in Vancouver, Meriel as a young woman is putting on her short white summer gloves. She wears a beige linen dress and a flimsy white scarf over her hair. Dark hair, at that time. She smiles, because she has remembered something that Queen Sirikit of Thailand said, or was quoted as saying, in a magazine. A quote within a quote—something Queen Sirikit said that Balmain had said. “Balmain taught me everything. He said, Always wear white gloves. It’s best.’” “Runaway,” The New Yorker, 2003 Carla heard the car coming before it topped the little rise in the road that around here they called a hill. It’s her, she thought. Mrs. Jamieson—Sylvia—home from her holiday in Greece. From the barn door—but far enough inside that she could not easily be seen—she watched the road where Mrs. Jamieson would have to drive by, her place being half a mile farther along than Clark and Carla’s. If it was somebody coming to see them, the car would be slowing down by now. But still Carla hoped. Let it not be her. “Passion,” The New Yorker, 2004 When Grace goes looking for the Traverses’ summer house, in the Ottawa Valley, it has been many years since she was in that part of the country. And, of course, things have changed. Highway 7 now avoids towns that it used to go right through, and it goes straight in places where, as she remembers, there used to be curves. This part of the Canadian Shield has many small lakes, which most maps have no room to identify. Even when she locates Sabot Lake, or thinks she has, there seem to be too many roads leading into it from the county road, and then, when she chooses one, too many paved roads crossing it, all with names that she does not recall. In fact, there were no street names when she was here, more than forty years ago. There was no pavement, either—just one dirt road running toward the lake, then another running rather haphazardly along the lake’s edge. “Chance,” The New Yorker, 2004 Halfway through June of 1965, the term at Torrance House School for Girls is over. Juliet has not been offered a permanent job—the teacher she was replacing has recovered from a bout of depression—and she could now be on her way home. Instead, she is taking what she has described as a little detour. A little detour to see a friend who lives up the coast. “Soon,” The New Yorker, 2004 Two profiles face each other. One, a pure-white heifer, with a particularly mild and tender expression, the other a green-faced man who is neither young nor old. He seems to be a minor official, maybe a postman—he wears that sort of cap. His lips are pale; the white of his visible eye is shining. A hand that is probably his offers up, from the lower margin of the painting, a little tree or an exuberant branch, fruited with jewels. “Silence,” The New Yorker, 2004 On the short ferry ride from Buckley Bay to Denman Island, Juliet gets out of her car and stands at the front of the boat, in the late-spring breeze. A woman standing there recognizes her, and they begin to talk. It is not unusual for people to take a second look at Juliet and wonder where they’ve seen her before. She appears regularly on the provincial television channel, interviewing people who lead notable lives, and deftly directing panel discussions, for a program called “Issues of the Day.” Her hair is cut short now, as short as possible, and has taken on a very dark auburn color, which matches the frames of her glasses. She often wears black pants, as she does today, and an ivory silk shirt, and sometimes a black jacket. She is what her mother would have called a striking woman. “The View from Castle Rock,” The New Yorker, 2005 On a visit to Edinburgh with his father when he is nine or ten years old, Andrew finds himself climbing the damp, uneven stone steps of the Castle. His father is in front of him, some other men behind—it’s a wonder how many friends his father has found, standing in cubbyholes where there are bottles set on planks, in the High Street—until at last they crawl out on a shelf of rock, from which the land falls steeply away. It has just stopped raining, the sun is shining on a silvery stretch of water far ahead of them, and beyond that is a pale green and grayish-blue land, a land as light as mist, sucked into the sky. “Wenlock Edge,” The New Yorker, 2005 My mother had a bachelor cousin a good deal younger than her, who used to visit us on the farm every summer. He brought along his mother, Aunt Nell Botts. His own name was Ernie Botts. He was a tall, florid man with a good-natured expression, a big square face, and fair curly hair springing straight up from his forehead. His hands, his fingernails were as clean as soap itself; his hips were a little plump. My name for him—when he was not around—was Earnest Bottom. I had a mean tongue. But I meant no harm. Or hardly any harm. “Dimension,” The New Yorker, 2006 Doree had to take three buses—one to Kincardine, where she waited for one to London, where she waited again, for the city bus out to the facility. She started the trip on a Sunday at nine in the morning. Because of the waiting times between buses, it took her until about two in the afternoon to travel the hundred-odd miles. All that sitting, either on buses or in the depots, was not a thing she should have minded. Her daily work was not of the sitting-down kind. “Free Radicals,” The New Yorker, 2008 At first, people kept phoning, to make sure that Nita was not too depressed, not too lonely, not eating too little or drinking too much. She had been such a diligent wine drinker that many forgot that she was now forbidden to drink at all. She held them off, without sounding nobly grief-stricken or unnaturally cheerful or absent-minded or confused. She said that she didn’t need groceries; she was working through what she had on hand. She had enough of her prescription pills and enough stamps for her thank-you notes. “Deep-Holes,” The New Yorker, 2008 Sally packed devilled eggs—something she usually hated to take on a picnic, because they were so messy. Ham sandwiches, crab salad, lemon tarts—also a packing problem. Kool-Aid for the boys, a half bottle of Mumm’s for herself and Alex. She would have just a sip, because she was still nursing. She had bought plastic champagne glasses for the occasion, but when Alex spotted her handling them he got the real ones—a wedding present—out of the china cabinet. She protested, but he insisted, and took charge of them himself, the wrapping and packing. “Face,” The New Yorker, 2008 I am convinced that my father looked at me, really saw me, only once. After that, he knew what was there. In those days, they didn’t let fathers into the glare of the theatre where babies were born, or into the room where the women about to give birth were stifling their cries or suffering aloud. Fathers laid eyes on the mothers only once they were cleaned up and conscious and tucked under pastel blankets in the ward or in semi-private or private rooms. My mother had a private room, as became her status in town, and it was just as well, actually, seeing the way things turned out. “Some Women,” The New Yorker, 2008 I am amazed sometimes to think how old I am. I can remember when the streets of the town I lived in were sprinkled with water to lay the dust in summer, and when girls wore waist cinchers and crinolines that could stand up by themselves, and when there was nothing much to be done about things like polio and leukemia. Some people who got polio got better, crippled or not, but people with leukemia went to bed, and, after some weeks’ or months’ decline in a tragic atmosphere, they died. “Fiction,” 2009 The best thing in winter was driving home, after her day teaching music in the Rough River schools. It would already be dark, and on the upper streets of the town snow might be falling, while rain lashed the car on the coastal highway. Joyce drove beyond the limits of the town into the forest, and though it was a real forest with great Douglas firs and cedar trees, there were people living in it every quarter mile or so. There were some people who had market gardens, a few who had some sheep or riding horses, and there were enterprises like Jon’s—he restored and made furniture. Also the services advertised beside the road, and more particular to this part of the world—tarot readings, herbal massage, conflict resolution. Some people lived in trailers; others had built their own houses, incorporating thatched roofs and log ends, and still others, like Jon and Joyce, were renovating old farmhouses. “Corrie,” The New Yorker, 2010 “It isn’t a good thing to have the money concentrated all in the one family, the way you do in a place like this,” Mr. Carlton said. “I mean, for a girl like my daughter Corrie here. For example, I mean, like her. It isn’t good. Nobody on the same level.” Corrie was right across the table, looking their guest in the eye. She seemed to think this was funny. “Axis,” The New Yorker, 2011 Fifty years ago, Grace and Avie were waiting at the university gates, in the freezing cold. A bus would come eventually, and take them north, through the dark, thinly populated countryside, to their homes. Forty miles to go for Avie, maybe twice that for Grace. They were carrying large books with solemn titles “The Medieval World,” “Montcalm and Wolfe,” “The Jesuit Relations.” “Gravel,” The New Yorker, 2011 At that time we were living beside a gravel pit. Not a large one, hollowed out by monster machinery, just a minor pit that a farmer must have made some money from years before. In fact, the pit was shallow enough to lead you to think that there might have been some other intention for it—foundations for a house, maybe, that never made it any further. “Leaving Maverley,” The New Yorker, 2011 In the old days when there was a movie theatre in every town there was one in this town, too, in Maverley, and it was called the Capital, as such theatres often were. Morgan Holly was the owner and the projectionist. He didn’t like dealing with the public—he preferred to sit in his upstairs cubbyhole managing the story on the screen—so naturally he was annoyed when the girl who took the tickets told him that she was going to have to quit, because she was having a baby. He might have expected this—she had been married for half a year, and in those days you were supposed to get out of the public eye before you began to show—but he so disliked change and the idea of people having private lives that he was taken by surprise. “Train,” Harper’s, 2012 This is a slow train anyway, and it has slowed some more for the curve. Jackson is the only passenger left, and the next stop is about twenty miles ahead. Then the stop at Ripley, then Kincardine and the lake. He is in luck and it’s not to be wasted. Already he has taken his ticket stub out of its overhead notch. “Amundsen,” The New Yorker, 2012 On the bench outside the station, I sat and waited. The station had been open when the train arrived, but now it was locked. Another woman sat at the end of the bench, holding between her knees a string bag full of parcels wrapped in oiled paper. Meat—raw meat. I could smell it. “Haven,” The New Yorker, 2012 All this happened in the seventies, though in that town and other small towns like it the seventies were not as we picture them now, or as I had known them even in Vancouver. The boys’ hair was longer than it had been, but not straggling down their backs, and there didn’t seem to be an unusual amount of liberation or defiance in the air. “Voices,” The Telegraph, 2013 When my mother was growing up, she and her whole family would go to dances. These would be held in the schoolhouse, or sometimes in a farmhouse with a big enough front room. Young and old would be in attendance. Someone would play the piano — the household piano or the one in the school — and someone would have brought a violin. The square dancing had complicated patterns or steps, which a person known for a special facility would call out at the top of his voice it was always a man and in a strange desperate sort of haste which was of no use at all unless you knew the dance already. As everybody did, having learned them all by the time they were ten or twelve years old. Một cuộc trò chuyện với Alice Munro, người luôn lấp đầy những câu chuyện của mình bằng sự say mê đối với cái cách mà con người khắc họa cuộc sống của chính họ. Người phỏng vấn Trong phần giới thiệu cho tuyển tập mới đây của mình, Những câu chuyện được chọn, chị nói rằng, những câu chuyện của chị, theo năm tháng, “được phát triển ngày càng dài hơn, và theo một cách rời rạc hơn và khắc khe hơn và kì dị hơn”. Tại sao chị lại nghĩ chúng tiến triển theo cách này? Alice Munro Anh biết đấy, tôi không chắc tại sao điều này lại xảy ra, bởi vì khi tôi viết một câu chuyện, tôi không thật sự phân tích nó. Nhưng khi tôi hoàn thành câu chuyện rồi, tôi sẽ bắt đầu xem xét lại nó, tôi nghĩ rằng theo nhiều cách những thứ tôi đã viết phá vỡ tất cả các quy luật của một truyện ngắn. Nhưng tôi không lấy làm tiếc nuối gì đặc biệt khi điều này xảy ra; tôi nhận thấy tôi chỉ có thể viết ra những gì liên quan đến tôi. Vậy nên tôi không cố khiến chúng trở nên bình thường trở lại. Thật sự, nếu một câu chuyện muốn diễn ra theo một chiều hướng riêng biệt, tôi sẽ sẵn sàng để điều đó xảy ra. Tôi chỉ bày chúng ra đó và xem điều mà nó làm được. Người phỏng vấn Chị nói những câu chuyện của chị thường phá luật. Cụ thể nó diễn ra như thế nào? Alice Munro À, tôi có một ý tưởng. Một vài câu chuyện mà tôi say mê dường như không có một mốc thời gian và địa điểm đặc biệt. Không có một quy luật nào cho điều này cả. Nhưng vẫn có kha khá ý nghĩa về những câu chuyện tôi đã đọc. Trong tác phẩm của tôi, tôi có xu hướng bao trùm thật nhiều thời gian, quay về quá khứ và tiến về hiện tại, và thỉnh thoảng cách tôi thực hiện chúng không thật sự đúng thứ tự. Tôi cảm thấy đây chính là điều mà người khác cho rằng họ phải điều chỉnh, nhưng điều tôi muốn bày tỏ chính là sự việc phải là bất cứ thứ gì nó phải là, và chúng phần nào đó phải được hoàn thành theo chính cách này. Thời gian là thứ khiến tôi thấy thích thú một cách trọn vẹn – quá khứ và hiện tại, và cái cách mà quá khứ hiện ra khi con người ta thay đổi. Thứ gây hứng thú cho tôi là cách những câu chuyện này được tạo nên, từ những điều được hình thành ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, và rời đi trong những giai đoạn khác nhau, và cách anh sử dụng câu chuyện để nhìn thấu chính mình, hoặc thỉnh thoảng chỉ để khiến cho cuộc đời dễ thở hơn. Người phỏng vấn Tôi để ý thấy rằng trong rất nhiều câu chuyện của chị, đặc biệt trong tuyển tập mới nhất, các nhân vật của chị đã tìm lại một sự kiện trong quá khứ – từ thời thanh niên hay thậm chí thời thơ ấu. Chị có thể nói thêm về thời gian như một chủ đề trong tác phẩm của chị? Alice Munro Có lẽ tôi nên nói rằng ký ức mang đến cho tôi những đãi ngộ lớn, bởi tôi nghĩ chúng ta đều kể những câu chuyện về cuộc đời mình cho chính chúng ta, cũng như cho những người khác. Vâng, những người phụ nữ làm vậy, bằng cách nào đó. Phụ nữ làm điều này thường xuyên hơn. Và tôi nghĩ, đàn ông, khi họ già đi họ cũng làm điều này, nhưng có lẽ bằng những cách thức khá khác biệt. Tôi lắng nghe cánh đàn ông nói chuyện, và họ sẽ kể về cuộc đời của họ trong những khoảng thời gian gian khó khăn những chuyến đi săn, trải nghiệm thời chiến, những lần họ rày la một cảnh sát. Và phụ nữ, … vâng, dĩ nhiên phụ nữ sẽ sinh con, và họ sẽ bị bệnh, và mọi chuyện khi họ chăm những đứa con của họ nữa. Tôi hầu như nói về phụ nữ ở độ tuổi của tôi, cho những người mà những điều tôi vừa kể trên chính là những điều trọng đại trong cuộc đời họ. Nhưng họ cũng dường như đang tìm kiếm một câu chuyện thật sự cảm động. Họ nghĩ về cuộc hôn nhân trước hoặc những cuộc tình vụng trộm và những điều này khiến họ kể về chuyện của họ như cách những người đàn ông kể về chuyến đi săn. Thứ gây hứng thú cho tôi là cách những câu chuyện này được tạo nên – thứ gì được đưa vào ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời, và thứ gì bị xóa đi trong những giai đoạn khác nhau, và cách anh sử dụng câu chuyện để nhìn thấu chính mình, hoặc thỉnh thoảng chỉ để khiến cho cuộc đời dễ thở hơn. Rất ít người muốn trông thấy cuộc đời họ luôn chỉ toàn những thứ vô ích. Người phỏng vấn Rất nhiều câu chuyện của chị là về phụ nữ. Chị nghĩ như thế nào về việc được gọi là nhà văn theo chủ nghĩa nữ quyền? Alice Munro Viết những câu chuyện về phụ nữ là điều rất tự nhiên đối với tôi – tôi là một người phụ nữ mà. Tôi không biết họ sẽ dùng từ gì để mô tả nếu một người đàn ông chỉ hầu như viết về đàn ông. Tôi luôn không chắc về ý nghĩa của từ “Nữ quyền”. Ngay từ đầu, tôi thường nói, vâng, dĩ nhiên tôi là một người ủng hộ nữ quyền. Nhưng nếu điều đó có nghĩa là tôi theo đuổi một kiểu lý thuyết nữ quyền nào đó, hoặc biết bất cứ điều gì về lý thuyết ấy, thì tôi không phải. Tôi nghĩ tôi ủng hộ nữ quyền chỉ theo nghĩa là tôi cho rằng trải nghiệm của phụ nữ là điều quan trọng. Đó chính là nền tảng thật sự của chủ nghĩa nữ quyền. Người phỏng vấn Khi đã trải qua một giai đoạn nghề nghiệp rồi, chị có thay đổi gì về kiểu phụ nữ mà chị viết về? Alice Munro Tôi không chắc là tôi có. Tôi không phải là nhà văn viết tự truyện, nhưng tôi khá theo sát cuộc đời của chính tôi về thứ tôi nghĩ về và trông thấy. Vậy nên, nếu bây giờ tôi viết chuyện về một người phụ nữ lớn tuổi đang nhìn lại cuộc đời mình, là bởi vì tôi đang ở chính cái giai đoạn này. Tôi từng là một phụ nữ trẻ khi tôi viết “Những anh em cao bồi dạo chơi” một câu chuyện về một đứa trẻ sống với bố của cô. Tôi từng ở cái tuổi ba mươi và tôi trở về lại với thời thơ ấu của tôi – vậy là, tôi thật sự có xu hướng nhìn lại. Tôi không có xu hướng nhìn ngắm hiện tại. Tôi phải nhìn mọi thứ trong cái gương chiếu hậu trước khi tôi có thể nắm được toàn bộ chúng. Tôi vẫn viết nhiều về những năm sáu mươi, cái thập niên đầy biến chuyển đối với phụ nữ ở tuổi tôi. Chúng tôi không trẻ đủ để thật sự đồng hành với thập niên đó, nhưng chúng tôi đã đủ trẻ để nhận ra rằng tất cả khả năng đã không khép lại với chúng tôi. Có là điều gì ở đó cứ tôi cứ nhìn lại và nhìn lại mãi. Nhưng suốt những năm sáu mươi ấy, tôi đã viết Cuộc sống của những cô gái và phụ nữ, về một giai đoạn sớm hơn nó nữa. Người phỏng vấn Trong “Nội thất gia đình”, một câu chuyện từ tuyển tập mới của mình, chị viết về một cô gái khám phá ra niềm đam mê viết của cô, và sự cự tuyệt của dì cô khi bà thấy bà trở thành một nhân vật trong những câu chuyện được xuất bản của cô cháu gái. Có phải câu chuyện này là trải nghiệm của chính chị? Alice Munro Không – không có điều gì trong đó thật sự xảy ra, nhưng nó thật sự đúng khi tôi còn trẻ, việc viết dường như quá quan trọng đối với tôi đến nỗi tôi hi sinh hầu như mọi thứ cho nó. Và hi sinh một vài người họ hàng sẽ không có gì là quan trọng cả. Bởi vì tôi nghĩ thế giới mà tôi viết về – thế giới tôi sáng tạo nên – theo cách nào đó có sức sống phi thường hơn cái thế giới mà tôi đang sống đây. Và tôi nghĩ nhiều nhà văn cũng nghĩ tương tự vậy. Khi anh già đi sự giận dữ của anh cần được viết giảm bớt một ít. Anh phải đối diện với sự thật đáng kinh ngạc là anh chắc chắn sẽ chết, một lúc nào đó. Vậy nên mọi thứ anh làm trong cuộc sống của anh dường như có vẻ cân đối hơn, bởi vì nó chỉ là một phần trong cuộc sống của anh. Người phỏng vấn Có bao giờ chị trải qua việc những người trong cuộc sống thực của chị nhận ra họ – đúng hoặc sai – trong câu chuyện của chị và đối chất với chị về chuyện này? Alice Munro Tôi từng trải qua một tình huống mà vài người nghĩ rằng họ ở trong một câu chuyện nhưng thực ra không hề, rất buồn về chuyện này. Và anh biết không, trong cái thị trấn nhỏ nơi tôi lớn lên, người ta không đọc nhiều – khi tôi bắt đầu xuất bản, dù sao thì – và họ không quen với kiểu viết ngôi thứ nhất. Vì vậy khi anh viết một cuốn sách và dùng ngôi xưng “Tôi”, sau đó họ đọc nó và thường nói “Đây là ai và cô ấy làm điều đó khi nào?” Bố của tôi nói “Cô ấy phải dùng trí tưởng tượng của mình, bởi vì theo như tôi biết, cô ấy không hề có bất cứ người bạn trai nào”. Người phỏng vấn Thật ra, tôi muốn hỏi chị về bối cảnh những câu chuyện của chị. Chị nổi tiếng về việc chỉ viết về một vùng đặc biệt – phía tây Ontario – và tôi muốn biết phản ứng của chị ra sao đối với việc được gọi là “nhà văn vùng miền”. Alice Munro Tôi không bận tâm chút nào nếu được gọi là nhà văn vùng miền nếu đều đó có nghĩa là trở thành ai đó giống như Eudora Welty. Đối với tôi, vùng miền rất quan trọng chỉ bởi tôi cảm thấy nó thật sinh động, nhưng tôi không nghĩ tôi đang viết những trải nghiệm chỉ giới hạn trong vùng miền đó. Tôi nghĩ nếu tôi lớn lên ở nơi nào đó trên lục địa, tôi sẽ dùng nơi đó làm bối cảnh cho câu chuyện của tôi, và các nhân vật sẽ có chút khác đi. Trong “Nội thất gia đình”, là câu chuyện khi tôi quay trở lại thời thơ ấu và thanh niên của tôi, những thứ nhất định tác động đến cô gái chính là điều riêng biệt đối với cộng đồng mà cô sống. Nhưng bản thân câu chuyện thì không. Khi tôi đọc, ví dụ, câu chuyện của Edna O’Brien về tuổi trẻ của cô ở Ireland, tôi cảm thấy một sự kết nối kinh khủng. Tôi không thật sự nghĩ rằng thứ chính yếu về một câu chuyện, là khiến cho một vùng đất trông sống động hơn. Tôi nghĩ nó chỉ khiến những điều bạn biết về cuộc sống trở nên sống động và lôi cuốn hơn. Và người ta có vùng miền ở khắp nơi – một vài vùng miền có thể không được xem như vùng miền. Ví dụ, một nhà văn Canada quan trọng khác, Mordecai Richler, người mới mất gần đây, viết chủ yếu về cuộc sống của người Do Thái ở Montreal, một ngôi làng. Ý của tôi là, ông viết về một kiểu ngôi làng, và tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có những ngôi làng trong mình. Những nhà văn ảnh hưởng đến Alice Munro Người phỏng vấn Điều gì mà những nhà văn khác gây ảnh hưởng đến chị? Tựa đề trong tuyển tập mới của chị khiến tôi nghĩ tới Flannery O’Connor, nhưng chị đã không đưa nó theo hướng bi kịch anh hùng. Alice Munro Không, không hề. Và tôi nghĩ đó chính là thứ đang lớn dần khi tôi già đi những câu chuyện có những kết thúc có hậu. Những sự kiện có thể biến chuyển bất cứ cách nào nó muốn, và thỉnh thoảng đó là một chuyển biến may mắn. Dĩ nhiên, tôi không giả vờ rằng những nhân vật định danh, Johanna và Ken, đã sống hạnh phúc về sau, nhưng tôi nghĩ rằng họ đã sống hòa hợp với nhau. Và có thể đoán được rằng, cuộc sống sẽ phần nào tốt hơn cho cả hai. Vậy là, tôi đã chú ý xu hướng này của chính tôi. Tôi nghĩ một vài nhà bình luận đã nói về điều này, nhưng theo một cách còn hơi tối nghĩa. Và về người ảnh hưởng đến tôi, anh đã nói đúng ngay từ đầu. Khi tôi tầm hai mươi, tôi đọc Carson McCullers, Flannery O’Connor, Eudora Welty. Tôi ngưỡng mộ Eudora Welthy nhất. Nhưng tôi đọc hầu hết mọi thứ ở độ tuổi hai mươi, như mọi người thường làm. Tôi cảm thấy nó cần thiết. Và một ít tiểu thuyết hạ gục được tôi. Tôi bây giờ đang đọc lại Anh em nhà Karamazov, bởi vì tôi tìm thấy ở đó quá nhiều thứ tôi đã để lỡ khi đọc chúng lúc còn trẻ. Tôi đã không đọc phần nói về tiền bạc. Tôi chỉ đọc phần nói về cảm xúc. Anh biết đó, khi nó nói về tiền, tôi chỉ đơn giản lượt qua. Người phỏng vấn Chị có thể là một trong ít người thừa nhận không đọc hết một cuốn sách từ đầu đến cuối, dù không phải là người đầu tiên — Alice Munro Thật sự hoàn thành một cuốn sách! Vâng, điều này đúng. Nhưng tôi cũng nên đề cập đến Chekhov. Tất cả nhà văn viết truyện ngắn đều nói về Chekhov, nhưng thật sự, ông ấy rất quan trọng đối với tôi. Tất cả những nhà văn viết truyện ngắn đều sẽ thừa nhận điều này. William Maxwell là nhà văn Bắc Mỹ ưa thích của tôi, tôi nghĩ vậy. Và một nhà văn người Ireland từng viết cho tạp chí The New Yorker tên Maeve Brennan, và Mary Lavin, một nhà văn người Ireland khác. Có nhiều nhà văn tôi tìm thấy trên tạp chí The New Yorker ở độ tuổi năm mươi, viết về cùng loại đề tài với tôi – về cảm xúc và nơi chốn. Còn có nhiều người khác mà tôi chưa thể nghĩ ra ngây bây giờ. Tôi đọc mọi lúc, và tôi thường xuyên bị tác động bởi những thứ tôi đang đọc. Một câu chuyện không giống một con đường để đi theo… nó giống một căn nhà hơn. Người phỏng vấn Chị từng viết một tiểu luận tuyệt vời về cách chị đọc những câu chuyện. Chị nói “Một câu chuyện không giống một con đường để đi theo… nó giống một căn nhà hơn. Bạn đi vào bên trong nó, ở trong đó một lúc, thơ thẩn ra đằng sau, đằng trước, và sắp đặt lại chỗ bạn thích và khám phá ra cách căn phòng và hành lang liên quan với nhau, cách cái thế giới bên ngoài thay đổi khi được nhìn từ những ô cửa sổ này…” Alice Munro Đúng vậy. Tôi viết phần đó như một đoạn giới thiệu, tôi nghĩ, hoặc là một bài tiểu luận cho một người bạn của tôi. Đầu tiên, tôi không biết phải viết gì, bởi vì tôi không thật sự nghĩ về việc thế nào là một câu chuyện. Nhưng sau đó tôi nghĩ về cách tôi đọc, điều tôi đã nói trong đoạn tiểu luận ấy, là đi vào từng ngóc ngách trong câu chuyện. Tôi có thể diễn tả trong vài câu điều tôi nghĩ về một câu chuyện. Sau đó, tôi tiếp tục đọc, và tôi đọc tới, đọc lui, đọc hết. Tôi sẽ giống như bị rào quanh bởi câu chuyện và nhìn mọi thứ bên ngoài câu chuyện theo hướng khác hẳn – xuyên qua ô cửa sổ của ngôi nhà ấy. Và nó không chỉ giống như một lối mòn cho ta xem xét những điều xảy ra. Khá thường xuyên, tôi biết điều phải xảy ra ngay khi tôi bắt đầu đọc. Có thể không phải là những tình tiết, mà là chính câu chuyện muốn được kể ra. Trong “Ghét, Thân …” của tôi, cốt truyện khá quan trọng, nhưng thường xuyên, trong một câu chuyện, cốt truyện không thật sự là yếu tố quan trọng nhất. Người phỏng vấn Tôi cho rằng điều này không chỉ nói riêng về cách chị đọc, mà còn là về cách chị viết. Các câu chuyện của chị có xu hướng ít bị chi phối bởi cốt truyện, với “Ghét, Thân …” có lẽ là một ngoại lệ. Alice Munro Vâng, nhưng thậm chí ở đó, khi tôi bắt đầu viết nó, tôi đã bắt đầu với việc để những cô gái viết những bức thư. Theo cách ấy, toàn bộ mọi thứ sẽ bắt đầu như lệ thường. Nhưng sau đó, tôi xem xét lại chúng, tôi lại muốn bắt đầu nó ở một chỗ nào đó khác, điều mà tôi đã làm trong phiên bản cuối cùng. Người phỏng vấn Tôi muốn nói một ít về hình thức và cấu trúc trong cách viết của chị. Chị là một trong số ít nhà văn thành công trên thế giới tạo nên tên tuổi của mình chỉ bằng việc xuất bản các truyện ngắn. Điều gì đã cuốn hút chị đến với hình thức truyện ngắn? Alice Munro Tôi đã viết Cuộc sống của những cô gái và phụ nữ, truyện này hầu như đã là một tiểu thuyết, nhưng nó được chia thành nhiều phần như những câu chuyện. Vậy tại sao tôi thích viết truyện ngắn? Thật ra tôi không chủ tâm viết truyện ngắn. Tôi đã dự định viết tiểu thuyết. Và đến nay vẫn vậy. Tôi vẫn giữ lấy cái ý định viết tiểu thuyết. Và tôi thậm chí đã bắt đầu viết tiểu thuyết. Nhưng một vài điều xảy ra với chúng. Chúng thường tan vỡ. Tôi nhìn vào những tư liệu này, thử hình dung điều gì có thể được hình thành và nó không bao giờ trở thành một tiểu thuyết. Nhưng khi tôi còn trẻ, chính thực tế đã xui khiến tôi lựa chọn viết truyện ngắn. Tôi có con nhỏ, và tôi không có bất cứ sự giúp đỡ nào. Đây là lúc chưa có máy giặt tự động, nếu anh có thể thật sự tin, không có cách nào để tôi có thể tìm thấy thời gian cho mình. Tôi không thể nhìn về phía trước và nói, thứ này sẽ lấy của tôi một năm, bởi vì tôi nghĩ với mỗi khoảnh khắc, vài điều gì đó sẽ xảy ra và chiếm hết thời gian của tôi. Vậy nên tôi viết từng mẫu, từng mẫu với một thời gian giới hạn dự tính. Có lẽ tôi quen với việc nghĩ về những tư liệu của tôi rằng chúng sẽ hoạt động theo cách ấy. Và sau đó, khi tôi có thời gian, tôi bắt đầu viết những câu chuyện kỳ lạ này, thứ được mở rộng ra một chút. Nhưng tôi vẫn không viết một tiểu thuyết, dẫu cho tôi có ý định chăng nữa. Người phỏng vấn Tôi thật sự nghĩ một vài truyện gần đây của chị là tiểu thuyết. Alice Munro Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Đó có lẽ là thứ tôi sẽ tiếp tục viết. Người phỏng vấn Hãy nói một ít về trẻ con trong những câu chuyện của chị. Trong “Ghét, Thân..” trẻ con thay đổi toàn bộ quỹ đạo của cuộc sống một người trưởng thành. Và trong những câu chuyện khác của chị, những thứ xảy ra trong thời thơ ấu thật không vô nghĩa chút nào. Trẻ con là những nhân vật có thật, trọn đầy, những đứa trẻ sống một cuộc sống đầy cảm xúc và cả đau đớn. Alice Munro Vâng, vâng. Tôi nghĩ trong trường hợp của nhiều nhà văn tôi từng đọc, sự kiện thời thơ ấu thật sự không bao giờ mất đi hoặc bị vứt bỏ cả. Chúng có thể được tìm thấy trong những cách khác nhau nhưng không bao giờ mất đi. Có lẽ đối với vài người chúng sẽ mất đi. Nhưng một vài điều trong mỗi nhà văn khiến họ muốn gợi lại được những điều này, dẫu chúng khá là khó chịu và có thể mang tính tàn phá. Không phải theo cách anh sẽ được giải phóng khỏi chúng hoặc khiến chúng tốt hơn, mà theo cách khám phá ra chúng, để thấy thứ gì đã thật sự xảy ra. Điều này thật sự quan trọng đối với tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện sẽ khiến tôi trở nên tốt hơn. Ý của tôi là, gợi lại những câu chuyện không giống với điều bạn sẽ làm với một nhà trị liệu. Ở đây đơn giản chỉ là khám phá ra, lấy nó ra khỏi những lớp màn che, cố nhìn vào trong nó. Người phỏng vấn Sự rõ ràng này là thứ chị nhận được khi chị đã nghĩ xong một câu chuyện, hay là thông qua một tiến trình viết thực tế? Alice Munro Oh – khi tôi quyết định viết về nó. Khi tôi cảm thức được rằng đây là thứ tôi muốn viết về. Điều này có nghĩa là tôi đang trong tiến trình khám phá rồi. Tôi lắng nghe câu chuyện của nhiều người và cách họ nghĩ về cuộc sống của họ thường là “điều này không vui sao, chuyện gì đã xảy ra với tôi”? “điều này không kinh khủng sao, điều gì đã xảy ra với tôi?” và tôi cũng như vậy, anh biết không? ngay từ đầu, đó là thứ gì đó anh tìm kiếm từ quan điểm của anh. Nhưng sau đó khi tôi bắt đầu viết về nó, nó trở nên hoàn toàn khác lạ. Người phỏng vấn Rất nhiều nhân vật trẻ tuổi trong câu chuyện của chị có xu hướng rất khôn ngoan, thậm chí là khôn ngoan hơn cả những người lớn xung quanh chúng. Chúng ta hiếm khi thấy trẻ con trong những câu chuyện của chị thực tình ngu dốt, và tôi tự hỏi đây có phải là một điều gì đó hơn là lời chú giải về những đứa trẻ hay người lớn cư ngụ trong những câu chuyện của chị? Alice Munro Tôi cho rằng nó chính là một mẩu ký ức. Tôi không nhớ là tôi từng ngây thơ. Tôi luôn nhớ mọi thứ một cách rất phức tạp. Hầu như tôi nhớ đến tôi là chính tôi khi còn là một đứa trẻ, giấu giếm chính mình khỏi thế giới của người lớn và giáo viên và những người xung quanh mình. Đây có thể là một vài điều chúng ta phải đương đầu với thế hệ và nơi chốn. Nhưng thứ cuối cùng tôi nhớ được là nhu cầu được bảo vệ, nhu cầu cần được ẩn núp, nhu cầu được cải trang. Và điều này giúp cho bản thân bạn không bị tàn lụi. Thỉnh thoảng, thậm chí là bây giờ, tôi nghĩ về cách trẻ con được đối xử như thế nào. Nhiều cách thức về gây ảnh hưởng được áp dụng, như không trừng phạt, như đã từng được áp dụng với tôi. Anh biết đây, không để chúng một mình với những điều đã xảy ra với chúng. Đây có lẽ là quan điểm của tuổi của tôi. Tôi ngạc nhiên khi con người muốn bảo vệ trẻ con trước những điều tồi tệ, trước những kiến thức về chuyện đang xảy ra. Hoặc khi những cố vấn nỗi buồn hoặc cố vấn bi kịch vội vã trong việc giúp trẻ con vượt qua mọi thứ. Vâng, tôi ngạc nhiên về điều đó trong xa hội loài người. Có nhiều trải nghiệm phải được giải quyết, vượt qua, như thể sự không hạnh phúc và mất mát không phải là điều tự nhiên. Tôi thật sự chưa từng nói về điều này trước đây. Người phỏng vấn Chưa từng, nhưng nó thật sự rất thích hợp. Đặc biệt từ ngày 11 tháng 9. Alice Munro Vâng. Tôi đã ngạc nhiên khi nghe một người phụ nữ nói rằng cô ấy đã kể cho những đứa trẻ của cô những về nó, bởi vì những đứa trẻ chỉ mới bốn, năm tuổi. Cô kể cho chúng nghe những câu chuyện về việc người ta đốt pháo hay thứ gì đó. Tôi nghĩ, nó rất kì lạ. Tôi nghĩ, có phải trẻ con đang làm chính xác điều mà tôi đang làm – giữ kết luận của chính mình cho chính mình. Người phỏng vấn Thật sự rất thú vị khi nghe chị nói về nhu cầu chính đáng cần bảo vệ chính mình – và sau đó, đọc những câu chuyện liên quan trong tuyển tập của chị. Alice Munro Vâng, tôi đã vượt qua nó – tôi thật sự vượt qua được. Khi tôi lần đầu viết tôi viết những câu chuyện mô phỏng, cách mà mọi người đều làm. Nhưng khi tôi sử dụng chính những tư liệu của tôi, và thậm chí nếu nó không phải là tự truyện, mọi thứ dường như trở thành việc nhận ra được chuyến thám hiểm này là điều duy nhất tôi muốn làm, và tiếp tục làm. Nếu không tôi sẽ không viết. Nó không tốt nếu bắt đầu viết mà nghĩ rằng “tôi sẽ không đề cập đến nó bởi vì nó không đẹp.” Người phỏng vấn Rất nhiều câu chuyện gần đây của chị, đặc biệt trong tuyển tập mới đây, giải quyết với những đề tài nặng nề về sự mất mát, bệnh tật và cái chết. Alice Munro Vâng, tôi lấy từ những điều tôi học được khi tôi già đi. Bây giờ, tôi có khả năng có những người bạn đang chết vì ung thư hơn, hoặc những người phải đến sống trong nhà dưỡng sinh. Ý của tôi là, tôi chưa thật sự ở trong đó lắm, nhưng nó bắt đầu được ở đó. Có một câu chuyện trong tuyển tập mới của tôi tên là “Điều được ghi nhớ” nơi một người phụ nữ tìm về với tình yêu đơn phương của bà, hoặc những cuộc ăn chơi, và chồng bà đã chết. Và điều này gây nên một tác động đối với cách bà ta nhìn lại. Người phỏng vấn Nhưng, câu chuyện của chị, dẫu cho có thuộc về những đề tài ấy, cũng không bao giờ ủy mị. thậm chí trong “Cây cầu nổi”, câu chuyện về một người phụ nữ bị ung thư, chỉ khiến cho cô ấy lo lắng nhiều về trách nhiệm phải quay về thế giới thực sau lần trị liệu cuối cùng hơn là nỗi đau của chính căn bệnh mà cô ta đang mang. Alice Munro Oh vâng, tôi hi vọng chúng không ủy mị. bây giờ tôi nhìn mọi thứ khác đi. Khi tôi ba mươi, nếu tôi cố viết về ai đó đang chết dần vì ung thư, tôi sẽ bị tràn ngập bởi cái bi kịch ấy. Chỉ việc lớn lên cũng có một ảnh hưởng nhất định. Đó là trải nghiệm đơn giản về nơi tôi đang ở trong cuộc đời mình. Thực hiện bởi Cara Feinberg The Atlantic Cẩm dịch

truyện ngắn alice munro